|
Nhiều lợi thế phát triển kinh tế tuần hoàn ngành gỗ thông qua cơ hội từ thị trường carbon |
Tính
đến nay, Việt Nam đã có 150 dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ carbon và
là một trong 4 nước có dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch đăng ký
nhiều nhất. Việt Nam có tiềm năng lớn trong việc phát triển thị trường
carbon năng động, chất lượng và hiệu quả.
Việt
Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế có độ mở lớn. Nếu áp dụng sớm
thị trường carbon, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp phải giảm phát
thải, sẽ tác động lớn đến nền kinh tế. Mặc dù doanh nghiệp phải bỏ rất
nhiều chi phí để chuyển đổi công nghệ, chuyển đổi theo hướng phát triển
xanh nhưng đối với các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung
thì không thể chậm hơn, cần phải chuyển đổi, nếu không sẽ tụt hậu với
thế giới.
Về
lợi ích vĩ mô, doanh nghiệp giảm phát thải, tham gia thị trường carbon
là cùng Chính phủ để thực hiện cam kết quốc tế trong giảm phát thải.
Đóng góp vào việc bảo vệ môi trường trước tác động của biến đổi khí hậu.
Tiếp
đến, xét về lợi ích cũng như cơ hội, khi tham gia thị trường carbon,
tài chính xanh chắc chắn sẽ làm tăng thương hiệu của doanh nghiệp, qua
đó sẽ giúp doanh nghiệp có nhiều điểm cộng trong đàm phán, xuất khẩu sản
phẩm.
Không
chỉ vậy, thực hiện giảm phát thải cũng là cơ hội để chính doanh nghiệp
thay đổi mô hình sản xuất, công nghệ. Qua đó tạo ra tín chỉ để bán ra
thị trường, thu về lợi nhuận.
Đến
nay thị trường tín chỉ carbon trên thế giới hoạt động rất sôi động, ở
khắp các châu lục. Mỗi quốc gia, cách thức và thời điểm vận hành thị
trường tín chỉ carbon khác nhau. Tuy nhiên, việc vận hành đều thông qua 3
hình thức thức vận hành thị trường carbon là bắt buộc, tự nguyện và
tuân thủ theo Điều 6 Thỏa thuận Paris. Ngoài ra, có một hình thức không
liệt vào 3 loại trên, tương đối đơn giản là mang lên sàn mua bán.
Về
giá tín chỉ carbon, ở hình thức tuân thủ theo Điều 6 Thỏa thuận Paris
sẽ không có giá tín chỉ carbon. Giá tín chỉ carbon chỉ có ở hình thức
bắt buộc và tự nguyện được định giá thông qua đấu giá hoặc mua bán trên
sàn. Giá tín chỉ carbon hiện phụ thuộc vào cung và cầu, phụ thuộc vào
tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực phát
thải. Điều này, tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia sớm
vào thị trường carbon và hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận cũng như tiếp
cận được thị trường quốc tế sớm hơn.
Với
lợi thế 14,2 triệu ha rừng, chiếm 42% diện tích đất nước, trong đó có 7
triệu ha trừng trồng sản xuất, Việt Nam đang có lợi thế trong chứng
minh được sự tăng trưởng sinh khối và giảm phát thải, đem đến nguồn tín
chỉ carbon dồi dào. Vừa qua Việt Nam đã nhận được hơn 41 triệu USD đầu
tiên (tương đương với 10,3 triệu tín chỉ carbon) từ Ngân hàng Thế giới
do chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.
Đây
cũng là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp gỗ tham gia vào thị
trường carbon thấp và tạo tiền đề để hướng đến phát triển kinh tế tuần
hoàn.
Gỗ
đóng vai trò hấp thụ và lưu trữ carbon, là một trong số ít ngành sản
xuất phát thải khí nhà kính âm so với các ngành khác với cùng mục đích
sử dụng như sản xuất đá, mỹ nghệ từ đá, hoặc các ngành sản xuất nguyên
vật liệu khác như nhựa, bê tông, thép… nên ngành gỗ có thể tận dụng thay
thế cho các nguyên liệu trên trong xây dựng để giảm phát thải carbon.
Ngành
gỗ sẽ được hưởng lợi từ xu hướng sử dụng các vật liệu gỗ thay thế cho
các vật liệu có phát thải cao như kim loại, nhựa, bê tông... Bên cạnh
đó, gỗ không chỉ được sử dụng nhiều trong sản phẩm nội thất như trước
đây, mà sẽ có cơ hội lớn trong ngành xây dựng với các loại gỗ cấu kiện
lớn.
Ngoài
ra, vật liệu từ gỗ cũng sẽ được dùng nhiều trong ngành năng lượng sinh
khối tái tạo, ngành tiêu dùng, bao bì... vì khả năng phát thải thấp, dễ
phân hủy và tái chế.
Việc
tái sử dụng các phụ phẩm ngành chế biến gỗ, sẽ nâng cao giá trị và hiệu
quả kinh tế sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo môi trường xanh, sạch,
không gây ô nhiễm môi trường. Nhiều doanh nghiệp ngành gỗ đã triển khai
trồng rừng địa phương, xây dựng nhà máy viên nén năng lượng sử dụng
cành, ngọn và phụ phẩm của các nhà máy chế biến gỗ trong khu vực và các
tỉnh lân cận; thiết lập chuỗi kinh tế lâm nghiệp tuần hoàn khép kín, từ
trồng rừng bao tiêu toàn bộ sản phẩm rừng trồng, chế biến sâu các sản
phẩm đồ gỗ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Các phụ phẩm còn lại có thể
tận dụng thành viên nén gỗ được (làm hoàn toàn từ phụ phẩm lâm nghiệp
như vỏ cây, lá cây, cành cây nhỏ, đầu mẩu gỗ vụn). Bên cạnh đó phụ phẩm
thải ra từ hệ thống các xưởng xẻ, xưởng ván bóc, xưởng dăm… sẽ là nhóm
nhiên liệu thay thế có tính chất bảo vệ môi trường khi được tận dụng,
tái chế đúng cách.
Bên
cạnh đó, với khả năng phát thải âm, ngành công nghiệp gỗ và đặc biệt là
lâm nghiệp có thể đạt lượng tín chỉ carbon để giao dịch bù đắp cho các
ngành công nghiệp khác. Sự khác biệt này sẽ mang lại lợi thế lớn khi kết
hợp với các ngành sản xuất khác, đem lại hiệu quả kinh tế và thế mạnh
cho ngành gỗ trong tương lai.
Việt
Nam với 14 triệu ha rừng - nếu quản lý bền vững sẽ tạo ra các tín chỉ
carbon thông qua hoạt động giảm phát thải khí nhà kính, tăng hấp thụ
carbon, tăng nguồn tài chính xanh cho doanh nghiệp, mang đến giá trị lớn
cho nền kinh tế. Song để tạo ra được tín chỉ carbon các doanh nghiệp
ngành gỗ sẽ phải thực hành phát triển bền vững (ESG) và bắt buộc phải có
báo cáo phát thải và giảm phát thải.
Bên
cạnh đó, để việc sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu ngày càng tăng,
lợi nhuận thu lại lớn, các doanh nghiệp ngành gỗ cần hiểu rõ, đáp ứng
và mở rộng các thi trường xuất khẩu, tận dụng các cơ hội từ nhiều phía
để tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp, trong đó cần tập trung vào
vấn đề tài chính carbon và thị trường carbon. Bởi vấn đề tài chính xanh
và thị trường carbon không xa lạ với các nước phát triển nhưng lại là
vấn đề hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam nói chung và ngành gỗ nói riêng.