Những năm qua, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển ấn tượng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Tuy nhiên, khu vực này vẫn còn gặp không ít khó khăn trong quá trình duy trì và phát triển. Một trong những trở ngại xuất phát từ khả năng tiếp cận vốn vay chính thức. Bài viết sẽ làm rõ thực trạng tiếp cận vốn của DNNVV, qua đó đề xuất giải pháp tháo gỡ rào cản nhằm hỗ trợ khối doanh nghiệp này trong thời gian tới.
Thực trạng tiếp cận vốn tín dụng của DNNVV
Kết quả đạt được
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), tính đến thời điểm 31/12/2018, cả nước có 714.755 doanh nghiệp đang hoạt động. Trong đó, lực lượng DNNVV chiếm khoảng 98,1% tổng số doanh nghiệp, đóng góp khoảng 45% cho GDP, 31% vào tổng thu ngân sách nhà nước và thu hút hơn 5 triệu việc làm.
Có thể thấy, DNNVV là lực lượng sản xuất quan trọng của nền kinh tế, tạo ra của cải vật chất và công ăn việc làm cho xã hội. Sự phát triển của DNNVV cũng là nền tảng để hình thành những tập đoàn tư nhân của đất nước. Do vậy, khung chính sách, pháp luật về tín dụng và hỗ trợ tín dụng đối với DNNVV đã và đang từng bước được hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi, nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp phát triển trong tiếp cận nguồn vốn vay. Đặc biệt, kể từ sau khi Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông qua ngày 12/06/2017, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản nhằm thúc đẩy tiếp cận nguồn vốn vay cho các doanh nghiệp này, như: Nghị định số 34/2018/NĐ-CP, ngày 08/03/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; Nghị định số 38/2018/NĐ-CP, ngày 11/03/2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo…
Thực hiện chỉ đạo và chủ trương của Chính phủ, ngành ngân hàng cũng xây dựng nhiều giải pháp, chính sách nhằm thúc đẩy DNNVV tiếp cận vốn tín dụng. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 45/2018/TT-NHNN, ngày 28/12/2018 hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng, tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận vay vốn. Cùng với việc ban hành chính sách, văn bản hướng dẫn, Ngân hàng Nhà nước còn tổ chức các Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tại nhiều địa phương nhằm thúc đẩy nguồn vốn tín dụng hỗ trợ DNNVV phát triển sản xuất, kinh doanh.
Triển khai cơ chế chính sách, chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, hình thức cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ngày càng đa dạng, thủ tục hành chính cũng được rút gọn hơn và quan trọng là các chương trình ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao giá trị gia tăng đã được các tổ chức tín dụng đẩy mạnh. Theo Ngân hàng Nhà nước (2019), qua 4 năm triển khai Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, đã có gần 195.000 doanh nghiệp được tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn với tổng số tiền được các ngân hàng cam kết cho vay đạt 2,5 triệu tỷ đồng. Chỉ riêng trong năm 2018, đã có trên 420 cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ngân hàng và doanh nghiệp được tổ chức trên toàn quốc. Các ngân hàng đã cam kết cho vay hơn 800.000 tỷ đồng, trong đó giải ngân gần 900.000 tỷ đồng cho trên 50.000 doanh nghiệp và một số đối tượng khác; thực hiện gia hạn nợ, cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ, giảm lãi suất cho gần 60.000 tỷ đồng đối với các khoản vay cũ cho gần 3.300 doanh nghiệp và một số đối tượng khách hàng khác.
Như vậy, hệ thống ngân hàng đã có những định hướng mở hơn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là phân khúc DNNVV. Trong điều kiện DNNVV ít có khả năng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, ít có khả năng tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ, nguồn từ ngân sách nhà nước, vốn hỗ trợ quốc tế còn hạn chế, thì vốn tín dụng ngân hàng vẫn là kênh tài trợ vốn chủ yếu cho DNNVV phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tính đến cuối năm 2019, dư nợ cho vay đối với DNNVV đạt trên 1.530.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 18,7% dư nợ toàn nền kinh tế (Hoàng Nguyên Khai, 2020).
Những khó khăn, vướng mắc
Bên cạnh kết quả đạt được, việc tiếp cận vốn ngân hàng của DNNVV hiện nay vẫn gặp khó khăn. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia (2019), có đến 73,4% doanh nghiệp chưa tiếp cận tín dụng. Trong đó, riêng tại TP. Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế của đất nước, cũng có đến 44,5% doanh nghiệp chưa tiếp cận tín dụng. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, vốn tín dụng cho vay DNNVV của các tổ chức tín dụng mới chỉ chiếm hơn 18% tổng tín dụng nền kinh tế so với đóng góp khoảng 45% GDP của khối doanh nghiệp này. Nguyên nhân xuất phát từ bản thân phía doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cũng như một phần từ phía Nhà nước.
Về phía Nhà nước
Hiện nay, bảo lãnh của các Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV có thể hủy ngang, theo đó, Quỹ có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh, dẫn đến tiềm ẩn xảy ra tranh chấp với các tổ chức tín dụng cho vay. Ngoài ra, Quỹ phải chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, vì vậy, để phòng tránh rủi ro, nhiều Quỹ vẫn yêu cầu tài sản bảo đảm không khác gì ngân hàng, nên vẫn không giải quyết được khó khăn nội tại của DNNVV, không khuyến khích được Quỹ bảo lãnh tín dụng phát triển. Hơn nữa, bảo lãnh cho vay là hoạt động có rủi ro, song hiện chưa có hướng dẫn về việc trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động bảo lãnh áp dụng cho Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Đối với Quỹ phát triển DNNVV, Nghị định số 39/2019/NĐ-CP, ngày 10/5/2019 của Chính phủ hướng đến định hướng Quỹ phát triển DNNVV cho vay trực tiếp thay vì việc cho vay gián tiếp thông qua các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa có thông tư hướng dẫn, hành lang pháp lý hỗ trợ việc thẩm định cho vay, nhận tài sản bảo đảm, trích lập dự phòng rủi ro. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ phát triển DNNV là phải bảo đảm an toàn vốn, tương tự như Quỹ bảo lãnh tín dụng, vì vậy, yếu tố tài sản bảo đảm vẫn là một yếu tố quan trọng trong thẩm định và xét duyệt hồ sơ.
Bên cạnh những yếu tố liên quan đến vướng mắc trong quá trình hỗ trợ DNNVV của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV hay Quỹ phát triển DNNVV, có thể thấy do hạn chế về nguồn vốn, nên quy mô của các quỹ còn khá nhỏ, dẫn đến số tiền bảo lãnh còn hạn chế so với nhu cầu của các DNNVV.
Ngoài ra, sự liên kết giữa các chính sách và các bộ, ban, ngành trong việc phối hợp hỗ trợ, đào tạo nâng cao năng lực của khối DNNVV chưa chặt chẽ, dẫn đến chưa phát huy được tổng thể nguồn lực của các bên liên quan nhằm hỗ trợ tốt hơn đối với DNNVV.
Về phía doanh nghiệp
Năng lực nội tại của các DNNVV còn yếu, không đủ uy tín vay tín chấp. Cụ thể, hiện nay, DNNVV phần lớn có công nghệ lạc hậu, sức chịu đựng rủi ro thấp, khả năng chống đỡ kém trước biến động của kinh tế vĩ mô. Mặt khác, đa số nhà quản lý của DNNVV chưa được đào tạo về quản trị kinh doanh một cách bài bản, chưa gắn với thực tế sản xuất, kinh doanh, nhất là trình độ kinh doanh trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ở mức cao. Năng lực hạn chế về quản trị là nguyên nhân dẫn đến việc DNNVV gặp khó khăn trong tìm kiếm, xây dựng phương án kinh doanh, cơ hội đầu tư khả thi, thiếu hiểu biết về các quy định khi tiếp cận các nguồn vốn vay.
Liên quan đến vấn đề tài sản bảo đảm, nhằm đảm bảo an toàn, các tổ chức tín dụng thường đưa ra các yêu cầu thế chấp chặt chẽ, trong khi các DNNVV lại hạn chế về tài sản thế chấp. Nhiều DNNVV có tài sản, nhưng không có đủ giấy tờ hợp pháp, hợp lệ để làm các thủ tục thế chấp như: doanh nghiệp được giao đất sử dụng mà chưa được cấp giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đất, hay doanh nghiệp có hợp đồng thuê đất trả tiền hàng năm nhưng lại không được thế chấp đất đai để vay vốn ngân hàng. Một số tài sản vô hình của doanh nghiệp chưa có cơ chế/hướng dẫn cụ thể cho phép được sử dụng làm tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng, như: nhãn hiệu doanh nghiệp, tài sản sở hữu trí tuệ...
Đó là chưa kể, số liệu kế toán, thông tin tài chính kế toán chưa theo chuẩn mực, thông tin chưa đảm bảo minh bạch do các DNNVV chưa coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu này; báo cáo tài chính phần lớn không có kiểm toán, tính chính xác còn hạn chế.
Về phía các tổ chức tín dụng
Khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn không chỉ ở chính các DNNVV, mà còn ở các ngân hàng. Thực tế cho thấy, các ngân hàng thương mại hiện nay chưa mạnh dạn thay đổi tư duy, chính sách cho DNNVV vay vốn, do còn e ngại DNNVV không có hoặc có ít tài sản đảm bảo.
Đặc biệt, để đáp ứng các tiêu chuẩn quản trị ngày càng cao theo thông lệ quốc tế, các ngân hàng đưa ra nhiều điều kiện đối với khách hàng vay vốn. Trong đó, những điều kiện mang tính chuẩn mực được đưa ra dựa trên cơ sở quy định của pháp luật và mọi doanh nghiệp vay vốn cần tuân thủ. Trong khi DNNVV lúc mới khởi sự thì hệ thống kế toán, tài chính chưa được cập nhật thường xuyên, tính minh bạch của thông tin chưa cao nên thường khó đáp ứng được các điều kiện này. Hơn nữa, đặc thù các DNNVV là các doanh nghiệp có thời gian thành lập hoặc vòng đời kinh doanh ngắn, thiếu tính ổn định trong hoạt động kinh doanh, do đó các ngân hàng gặp khó khăn trong việc thẩm định hiệu quả của phương án vay vốn, đánh giá uy tín của khách hàng trong quan hệ tín dụng để đưa ra quyết định cho vay.
Ngoài ra, các tổ chức tín dụng chưa có các sản phẩm dịch vụ chuyên biệt cho nhóm khách hàng DNNVV. Các loại hình định chế tài chính trung gian khác phát triển chậm, phạm vi và quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ và chủ yếu chỉ tập trung vào các doanh nghiệp lớn đang niêm yết. Mạng lưới hệ thống các tổ chức tín dụng phân bố chưa đều, chưa hợp lý, tập trung đa phần ở các thành phố, đô thị lớn, trong khi ở các vùng nông thôn lại rất ít, thậm chí, có vùng còn không có sự hiện diện của ngân hàng… Điều này phần nào cũng ảnh hưởng đến khả năng đa dạng hoá các kênh huy động vốn của các DNNVV.
Một số giải pháp
Để tháo gỡ khó khăn, giúp các DNNVV tiếp cận nguồn vốn vay hiệu quả, tác giả kiến nghị một số giải pháp sau:
Về phía Nhà nước
Các cơ quan quản lý, nhất là Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng các chính sách vĩ mô hỗ trợ DNNVV tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng. Để làm được điều này, các nhà hoạch định chính sách cần có lộ trình, giải pháp khuyến khích đồng bộ các thị trường tài chính, đa dạng hóa các kênh huy động vốn trong nền kinh tế, hạn chế tình trạng tín dụng đen. Điều hành chính sách lãi suất linh hoạt, kịp thời và ổn định, phù hợp với cơ chế thị trường. Mặt khác, hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất để đảm bảo lãi suất trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường; thực hiện triệt để và kiên trì các giải pháp hỗ trợ lãi suất, tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV có thể tiếp cận được sự hỗ trợ của Chính phủ, qua đó phát huy tốt nhất hiệu ứng của gói kích thích này đối với nền kinh tế.
Bên cạnh đó, nhằm tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai Quỹ bảo lãnh DNNVV, cơ chế bảo lãnh nên chuyển sang bảo lãnh không hủy ngang để giúp tổ chức tín dụng yên tâm khi cấp tín dụng; đồng thời, có quy định cụ thể về việc trích lập dự phòng rủi ro, xây dựng quỹ dự phòng rủi ro. Ngoài ra, có thể kêu gọi vốn góp từ các tổ chức tín dụng và Quỹ nước ngoài để tăng vốn điều lệ cho Quỹ nhằm tạo nguồn lực cho Quỹ phát triển và hỗ trợ một cách thiết thực đối với DNNVV, trên cơ sở đó, quy mô của Quỹ sẽ càng được mở rộng.
Ngoài ra, cần tăng cường sự phối hớp giữa các bộ, ngành có liên quan, Hiệp hội DNNVV và Ngân hàng Nhà nước để tổ chức các chương trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, cung cấp thông tin thị trường vĩ mô cũng như các thông tin liên quan đến định hướng của Chính phủ, thông tin về các chương trình vay vốn, yêu cầu và cách thức để xây dựng hồ sơ tiếp cận vốn thông qua các kênh khác nhau cho DNNVV.
Về phía tổ chức tín dụng
Một là, tăng cường tìm kiếm và tiếp cận các nguồn vốn giá rẻ từ các chương trình, dự án ưu đãi của các tổ chức trong và ngoài nước để tài trợ cho các lĩnh vực kinh doanh đặc thù của các DNNVV được Chính phủ, Nhà nước chú trọng phát triển.
Hai là, thiết kế các sản phẩm cho vay đặc thù phù hợp với đối tượng khách hàng là DNNVV theo từng nhóm ngành nghề để có các giải pháp đáp ứng yêu cầu khách hàng một cách linh hoạt.
Ba là, cải tiến, đơn giản hóa quy trình cho vay, yêu cầu thông tin cung cấp phù hợp với thực tế và có tư vấn, hướng dẫn chi tiết để các DNNVV có thể dễ dàng nắm bắt và thực hiện. Tiến tới có thể áp dụng công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) trong hoạt động ngân hàng, giúp cho ngân hàng nắm bắt được thông tin về hoạt động kinh doanh, xu hướng sử dụng sản phẩm dịch vụ, cũng như đánh giá về uy tín trong quan hệ tín dụng của khách hàng tốt hơn.
Bốn là, tổ chức các diễn đàn/hội thảo để kết nối DNNVV và ngân hàng nhằm cung cấp thông tin và tư vấn cho doanh nghiệp về sản phẩm, thủ tục vay vốn. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có thể kết nối các DNNVV của ngân hàng với các đối tác lớn, từ đó, tăng cơ hội cho các DNNVV trở thành nhà cung ứng của các đối tác lớn này, đồng thời, giúp DNNVV dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tài trợ từ các ngân hàng hơn.
Năm là, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin liên kết với các DNNVV, triển khai và cung cấp các giải pháp quản lý dòng tiền (như: quản lý khoản phải thu, khoản phải trả, sao kê, báo cáo dòng tiền...) để cho phép các doanh nghiệp có thể tự giao dịch với ngân hàng thông qua hệ thống này một cách nhanh chóng và thuận tiện với chi phí thấp, giúp các DNNVV nâng cao năng lực quản lý tài chính, đáp ứng các điều kiện khi tham gia các chuỗi cung ứng của các đối tác lớn trong và ngoài nước.
Sáu là, tài trợ cho vay theo chuỗi cung ứng. Dựa vào uy tín và mức độ rủi ro của một doanh nghiệp trung tâm (khách hàng lớn và truyền thống của ngân hàng), các DNNVV tham gia chương trình cho vay theo chuỗi cung ứng (với vai trò là nhà cung cấp/nhà phân phối đối với doanh nghiệp trung tâm) có cơ hội tiếp cận nguồn vốn ngân hàng mà không cần đáp ứng đầy đủ điều kiện thế chấp tài sản, thủ tục vay vốn như các sản phẩm tín dụng thông thường, với chi phí lãi suất thấp hơn do được dựa trên nền tảng xếp hạng tín dụng, uy tín của doanh nghiệp trung tâm. Đây được xem là giải pháp quan trọng trong thời điểm hiện nay để tháo gỡ cho các DNNVV.
Về phía DNNVV
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế quản lý, kế hoạch kinh doanh, tài chính; lựa chọn các phương án kinh doanh hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chủ chốt, có thế mạnh, có khả năng tạo ra dòng tiền bền vững. Để chiến lược kinh doanh mang tính khả thi cao, các DNNVV cần nghiên cứu kỹ mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước, chiến lược phát triển ngành, nghề; đồng thời, nắm bắt khả năng của mình để xây dựng chiến lược cho tương lai. Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược riêng, phù hợp với khả năng về vốn, năng lực nhân sự, mục tiêu phát triển, ngành hàng tham gia kinh doanh…
Bên cạnh việc đầu tư, nâng cấp công nghệ lõi, đầu tư và ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiên tiến, các DNNVV cần chú trọng tăng cường năng lực quản trị công nghệ, tạo dựng nền tảng phát triển mạnh các sản phẩm, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Chủ động cải tiến công nghệ theo hướng sử dụng công nghệ số để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán cho DNNVV, có thể sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập nếu cần thiết để chứng minh sự minh bạch tài chính của mình nhằm nâng cao uy tín đối với các tổ chức tín dụng.
Thứ ba, tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng kiểm soát dòng tiền và tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn./.
TS. Bùi Thị Hoàng Lan
Email: lanbh@neu.edu.vn
Bộ môn Kinh tế và Quản lý Đô thị
(Bài viết được đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo T5/2020)
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ (2018). Nghị định số 34/2018/NĐ-CP, ngày 08/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV
2. Ngân hàng Nhà nước (2018). Thông tư số 45/2018/TT-NHNN, ngày 28/12/2018 hướng dẫn các tổ chức tín dụng trong cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP, ngày 08 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
3. Bộ Kế hoạch Đầu tư (2019). Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2019
4. Ngân hàng Nhà nước (2019). Tài liệu Hội nghị kết nối ngân hàng – doanh nghiệp
5. Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia (2019). Tài liệu Hội nghị về tín dụng và thúc đẩy tiếp cận tín dụng, ngày 18/6/2019 tại TP. Hồ Chí Minh
6. Nguyễn Thị Cúc (2016). Nâng cao hiệu quả vốn vay cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Tài chính, kỳ I tháng 5/2016
7. Phùng Thế Đông, Nguyễn Thị Hồng Nhâm (2019). Đa dạng hóa nguồn vốn chính thức cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 10(692), tháng 4/2019
8. Hoàng Nguyên Khai (2020). Điều hành chính sách tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn phát triển kinh tế bền vững, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 Tháng 3/2020
9. Lê Thiết Lĩnh (2019). Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tiếp cận vốn tín dụng phát triển sản xuất, kinh doanh, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 11/2019
10. Nghiêm Xuân Thành (2019). Giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Ngân hàng, số Chuyên đề đặc biệt năm 2019